Israel-hãy đi, khám phá và cảm nhận
Bài viết đăng trên ấn phẩm Pascal Color 4 của Trường THCS Pascal.
Bài viết được thực hiện nhân chuyến học tập của TS. Hoàng Thanh Tú tại Israel năm 2016 do Đại sứ quán Israel cấp học bổng.
Lời cảm ơn: Trân trọng cảm ơn cô Nguyễn Bảo An – Chuyên viên Hợp tác quốc tế (Đại sứ quán Israel ở Hà Nội) đã cung cấp thêm một số tài liệu để tác giả hoàn thành bài viết này.
Ngay từ thời phổ thông và sau đó là những năm tháng học đại học, tôi ấn tượng về đất nước Israel – nằm ở vị trí chiến lược, ngã ba của châu Âu, châu Á và châu Phi, một vùng đất có lịch sử thăng trầm mấy nghìn năm, luôn phải trải qua chiến tranh, tàn phá; một dân tộc chịu cảnh sống lưu vong, phiêu bạt khắp nơi trên thế giới trên 2000 năm và mãi đến năm 1948 mới có Nhà nước độc lập, rồi từ đó đến nay quốc gia ấy luôn được gọi là điểm “nóng” ở khu vực Trung Đông. Không chỉ nhỏ bé với diện tích 22.072 km2, dân số 8 triệu dân, Israel còn là một quốc gia trẻ, rất trẻ, mới chỉ có 68 năm tuổi (1948-2016). Nếu ví với cuộc đời một con người thì Israel mới chỉ như một đứa trẻ lên 3. Song những thành tựu mà họ đạt được cho đến nay thì thật đáng khâm phục.
TS. Hoàng Thanh Tú trong chuyến học tập tại Israel năm 2016
Sau này, tôi đọc thêm nhiều sách và biết thêm nhiều điều về “trí tuệ Do Thái”, tên tuổi các nhà khoa học, chính trị gia lỗi lạc, nhạc sĩ cổ điển, văn sĩ… (Albert Einstein-nhà Vật lí học lỗi lạc đã phát triển Thuyết tương đối, Sigmund Freud-nhà tâm lý học phát triển học thuyết phân tâm học, Henry Kissinger-Ngoại trưởng Mĩ năm 1973…) và số lượng giải Nobel được trao cho người gốc Do Thái (người gốc Do Thái chiếm khoảng 0,2% dân số thế giới nhưng số lượng giải Nobel của họ chiếm khoảng 22% của thế giới). Ở nước Mĩ hiện nay có 1/3 triệu phú và 20% giáo sư các trường đại học hàng đầu thế giới là người Do Thái.[1]
Tôi ao ước được đến đó một lần và đơn giản chỉ mong có chút trải nghiệm và cảm nhận về Vùng đất Thánh (Holy Land) nơi gặp gỡ và lưu dấu ấn của 3 tôn giáo lớn trên thế giới: Thiên Chúa giáo, Hồi giáo và Do Thái giáo. Cơ hội đến trước cả dự định của tôi. Đó là khoá học dành cho giảng viên các trường Đại học (từ ngày 4-23/12/2016) do Đại sứ quán Israel tại Hà Nội tổ chức và tôi may mắn được nhận học bổng của Bộ ngoại giao Israel. Cùng với một thành viên của Việt Nam và 22 thành viên đến từ 17 quốc gia khác trên thế giới, tôi lên đường vừa háo hức vừa lo lắng.
Trải qua một hành trình bay dài nhất từ trước đến thời điểm đó (17 tiếng đồng hồ, quá cảnh ở sân bay Inchion-Hàn Quốc), tôi đặt chân đến Jerusalem vào lúc 10 giờ đêm. Qua một đêm ngủ dậy, sáng mai mở cửa sổ khách sạn là một khung cảnh đẹp tuyệt vời. Trời se se lạnh nhưng nắng vàng rực rỡ và cả một thành phố đá trắng hiện ra trước mắt tôi. Từng được vua David chọn là kinh đô của đất nước từ hơn 3000 năm trước, trải qua quá trình lịch sử, Jerusalem vẫn còn lưu giữ được nét đẹp cổ kính của những di tích hàng ngàn năm tuổi gắn với các tôn giáo lớn của thế giới. Tôi đã được thong dong đi qua bốn quận của thành cổ Jerusalem gắn với các tôn giáo khác nhau như: Muslim Quarter, Armenian Quarter, Christian Quarter, Jewis Quarter. Mặc dù các công trình hay đền thờ, nhà thờ mang đậm nét tôn giáo và đa tôn giáo song cũng rất đặc sắc, không pha trộn.
TS. Hoàng Thanh Tú nhận chứng chỉ trong khóa học tập tại Israel
Và chính trong đêm Noel, tôi được thăm Nhà thờ Mộ Chúa (Holy Seplucher)-một trong những nơi linh thiêng nhất của Thiên Chúa giáo (truyền thuyết kể về Chúa Jesus bị đóng đinh rồi được chôn cất trong hầm mộ và sự phục sinh của Ngài ở đó); Nhà thờ Hồi giáo Al-Aqsa-Địa điểm linh thiêng của người Hồi giáo với mái vòm rất đặc trưng và màu vàng nổi bật trong thành phố cổ đá trắng Jerusalem; và đặc biệt được xem mọi người nhảy múa hay đứng trước Bức tường than khóc (Western Wall) đặt hai bàn tay lên tường, cùng khóc và cùng cầu nguyện với họ. Ở Jerusalem-vùng đất linh thiêng thu hút rất nhiều tín đồ của 3 tôn giáo lớn trên thế giới dù chia làm các phần với các đặc trưng văn hoá của các tôn giáo khác nhau song không có xung đột hiện hữu. Trong đêm Noel, tất cả đều đến đây trong trang phục đẹp, cùng hành lễ và cùng cầu nguyện cho những điều tốt đẹp nhất, chắc chắn có cầu nguyện cho một nền hoà bình bền vững ở đây. Tôi, từ nơi xa đến đây, không theo tôn giáo nào, nhưng tôi cảm nhận được điều ấy và tôi cũng cầu nguyện cho nền hoà bình ở nơi đây cũng như cho toàn thế giới.
TS. Hoàng Thanh Tú cùng các bạn học từ 18 quốc gia trên thế giới tham gia khóa học tại Israel
Tôi còn được thăm núi Olive (Mount of Olive), khu vực khảo cổ thành của vua David và xa hơn nữa là thăm Biển hồ Galiee-Nơi diễn ra các hoạt động giảng đạo của Chúa Jesus cũng như câu chuyện về các phép lạ của Chúa; thăm Biển Chết (Dead Sea) – “Cái rốn của địa cầu”. Nằm giữa biên giới Israel, Palestine và Jordan, Biển Chết có vị trí địa lý thấp nhất trong đất liền, nước chỉ có thể chảy vào mà không thể chảy ra. Theo Kinh thánh, nơi này được gọi là Biển Chết vì những vùng đất và thành phố tội lỗi nhất trong lịch sử sẽ bị hủy diệt và nhấn chìm xuống những nơi sâu nhất của biển này. Biển Chết còn có tên là Biển Muối vì hàm lượng muối trong biển cao gấp 9 lần các biển khác. Vì thế, đến đây bạn cũng sẽ được trải nghiệm cảm giác nổi và nằm trên mặt nước để đọc sách như tôi và nhiều du khách khác. Đặc biệt, tôi còn được đến pháo đài cổ “bất khả xâm phạm” được xây dựng ở gần Biển Chết-pháo đài Masada. Được vua Herod đại đế xây dựng từ khoảng năm 40 đến năm 30 TCN, pháo đài nằm trên đỉnh núi cao hơn 400m và đây từng là căn cứ của người Do Thái để chống lại quân đội La Mã chiếm đóng trong khoảng những năm 70 đến 73. Trận vây hãm lịch sử diễn ra và gần 1000 người Do Thái đã dũng cảm chiến đấu chống lại đoàn quân lên đến 15000 quân La Mã. Vì thế nơi đây là lưu dấu ấn hình tượng có ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn thể hiện sự nỗ lực phản kháng cuối cùng của người Do Thái chống lại sự đàn áp của đế chế La Mã, thể hiện mong muốn tự do của họ. Cuối cùng họ đã chọn tự tử còn hơn là làm nô lệ. Kể từ trận chiến đó người Do Thái phải sống rải rác ở khắp nơi trên thế giới và họ còn phải vượt qua nạn diệt chủng khủng khiếp của Đức Quốc Xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai để tồn tại và lập nên nước Israel ngày nay. Masada bị bỏ hoang cho đến tận năm 1838 mới lại được các nhà nghiên cứu lịch sử khám phá và năm 2001 được UNESCO công nhận là Di sản thế giới.
Thời gian ở Jerusalem không dài song tôi đã may mắn được cảm nhận rất nhiều điều. Tôi rất ấn tượng với tinh thần của người Do Thái: Họ mang đến cho chúng tôi và nhiều người khác cơ hội học tập, họ quan niệm họ không giàu và họ không giúp người khác/đất nước khác (khó khăn hơn, nghèo hơn) bằng cách cho tiền, mà họ chia sẻ kiến thức, chia sẻ các thành tựu đạt được, cách thức sử dụng có hiệu quả nguồn lực sẵn có, chia sẻ những bài học thành công.
“Văn minh Do Thái không để lại những kiến trúc nổi tiếng như những kim tự tháp, điện Pantheon hoặc Vạn Lý Trường Thành, nhưng nó lưu lại mãi mãi một di sản phi vật thể vô giá mà ít có nền văn minh nào có thể sánh được về tầm ảnh hưởng lâu dài, sâu sắc đối với văn minh toàn nhân loại”[2]. Với hơn 2000 năm luôn bị các đế quốc (Roman, Ottoman) xâm chiếm và tàn phá và cho đến tận năm 1948 họ mới trở thành một quốc gia độc lập, được Liên Hợp Quốc công nhận. Dù phải sống nhiều nơi trên thế giới, người Do Thái vẫn giữ được văn hoá truyền thống, giữ được ngôn ngữ của mình-Hebrew. Cho đến nay văn hoá của họ vẫn rất đặc trưng, không giống với bất kì dân tộc nào trên thế giới. Dù là theo tôn giáo nào, họ cũng chung sống hoà bình, thân thiện và tạo nên một nền văn hoá đa dạng song mang nét đặc trưng riêng.
TS. Hoàng Thanh Tú chụp ảnh lưu niệm tại khu di tích Bức tường than khóc – thánh địa linh thiêng của người Do thái
Trong lịch sử vùng đất này luôn có chiến tranh. Gần nhất là cuộc chiến năm 1967 với các nước láng giềng. Song đến đây tôi cảm nhận được nền hoà bình dường như có lâu rồi và họ trân trọng, gìn giữ nền hoà bình ấy, mặc dù trên đường phố, hình ảnh cảnh sát, hay những người lính mang súng (kể cả súng máy nhỏ) là rất quen thuộc, mặc dù thanh niên hết tuổi phổ thông bắt buộc nhập ngũ (nam thanh niên là 3 năm, nữ 2 năm). Với họ, các bạn trẻ vào quân đội không phải chỉ để học sử dụng vũ khí hay về chiến tranh, quân đội là nơi họ tiếp tục học tập và tham gia các hoạt động tình nguyện, phục vụ cộng đồng.
Ba tuần học tập ở đây tôi còn rất ấn tượng với cách thức tổ chức lớp học khoa học, các hoạt động học tập phong phú, sáng tạo, những trải nghiệm thực tế… gắn kết 24 thành viên đến từ 18 quốc gia (văn hoá) khác nhau. Mỗi người chúng tôi mang đến khoá học một câu chuyện thành công của mình để chia sẻ với nhau. Đó chính là điều đầu tiên tôi học được từ khoá học này. “Sharing is inspiring”-Chia sẻ là để truyền cảm hứng, đó là thông điệp của khoá học. Vì thế, từng ngày học đều đươc các thành viên ghi chép lại và chia sẻ với cả lớp theo những cách thức rất sáng tạo. “Be in time”- đúng giờ và đúng giờ là yêu cầu bắt buộc của toàn khoá học. Tất cả chúng tôi đều phải nỗ lực rất lớn để thực hiện theo lich trình của 3 tuần học. Chúng tôi cùng nhau trải qua một đêm hội Văn hoá (Culture Night), mỗi người hoặc nhóm 2 người chúng tôi sẽ cùng nhau trưng bày các hiện vật, đồ lưu niệm thể hiện nét văn hoá đặc trưng, đặc sắc của quốc gia mình, sau đó sẽ tặng lại nhau những món đồ ấy; biểu diễn một tiết mục hát, múa hay nhảy của dân tộc mình. Sau dạ hội ấy, lớp học đa quốc gia của chúng tôi gắn bó nhau hơn, thân thiện hơn và cùng nhau tham gia các hoạt động học tập, trải nghiệm.
Không chỉ học tập trong lớp học, thực hành, thảo luận nhóm…,chúng tôi còn được trải nghiệm rất nhiều qua các chuyến thăm các trường Đại học danh tiếng ở Jerusalem như: Đại học Hebrew, Đại học Technion và các trường khác như: Đại học Bar Ilan, Beit Berl… Tôi thực sự ấn tượng với chuyến thăm Ein Shemer Greenhouse. Ở đó, các bạn học sinh được thoả sức sáng tạo sau giờ học chính khoá. Các bạn làm dự án, sáng chế những thứ cần đến cho tương lai. Với điều kiện đất đai khô cằn, sa mạc nhiều, các bạn nhỏ được thử nghiệm trồng cây thuỷ sinh rất đa dạng.
Tôi cũng dành thời gian thăm các bảo tàng tưởng niệm nạn diệt chủng, bảo tàng Israel và bảo tàng khảo cổ học Rockeffeler. Bảo tàng ở Israel rất thú vị và cuốn hút người xem. Tôi rất ấn tượng với các phần trưng bày phong phú và độc đáo. Đặc biệt là rất nhiều gia đình cùng đến thăm và các bạn nhỏ với các độ tuổi khác nhau đều rất chăm chú quan sát và học hỏi.
TS. Hoàng Thanh Tú cùng các bạn trong khóa học do Đại sứ quán Israel tổ chức
Những người dân tôi đã gặp ở đây đều rất thân thiện, cởi mở, luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác. Tất cả họ đều làm việc chăm chỉ, đặc biệt là người cao tuổi – những người ở Việt Nam có thể đã nghỉ hưu nhưng ở đây họ vẫn làm việc miệt mài tại bảo tàng, khách sạn, trường học. Nhìn họ không có gì là mệt mỏi, lúc nào cũng tươi cười và rất trách nhiệm với công việc của mình. Trước khi đến đây, tôi cũng đã đọc một cuốn sách “Trí tuệ Do Thái” và cũng ao ước được biết đến trí tuệ của họ. Khi đến đây, tôi thực sự cảm nhận được trí tuệ của họ hiện hữu qua toàn bộ khung cảnh, cuộc sống nơi đây. Một điều đáng nể là họ có thể nói thành thạo nhiều thứ tiếng khác nhau: Hebrew, English, Arab… Tất cả những người mà tôi được tiếp xúc, ngay cả các bác lái xe taxi cũng đều nói được ít nhất thành thạo 2 thứ tiếng. Khi tôi nói muốn thăm một điểm nào đó thì không chỉ đưa tôi đi mà họ còn có thể như một hướng dẫn viên du lịch giới thiệu luôn về những điểm nổi bật của nơi đó.
Bốn năm đã trôi qua, song những ấn tượng về đất nước Israel, về khoá học vẫn còn vẹn nguyên trong tôi. Từ ánh nắng vàng rực rỡ trong không khí se lạnh đến thành phổ cổ đá trắng Jerusalem hay đơn giản chỉ là những ánh mắt, nụ cười thân thiện của người dân ở đó, từ tình cảm của những thành viên trong lớp học, tuy khác nhau về văn hoá song qua 21 ngày đã kịp gắn bó đến mức rơi lệ ở buổi học cuối cùng đến sự nhiệt tình của các giảng viên của khoá học, sự trang trọng của Đại sứ quán dành cho chúng tôi trong buổi tổng kết, nhận chứng chỉ, tất cả đã luôn theo tôi và là động lực để tôi tiếp tục lan toả và cống hiến ở đất nước mình. “Trí tuệ Do Thái” thật khó để diễn giải cho dễ hiểu song bạn sẽ cảm nhận được rõ ràng nếu bạn đến nơi ấy, khám phá và cảm nhận.
Hoàng Thanh Tú
31/7/2020
[1] Đặng Hoàng Xa, “Câu chuyện Do Thái. Lịch sử thăng trầm của một dân tộc”, NXB Hồng Đức, 2018, tr.16.
[2] Sđd, tr.17